Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học ngày nay đã chứng minh Huế vùng đất ngày nay có mối quan hệ với cội nguồn văn hóa Sa Huỳnh và giao lưu với các nền văn hóa Đông Sơn ở phía bắc đất nước. Theo tài liệu cổ, từ hàng ngàn năm trước đây, tỉnh Thừa Thiên Huế đã từng là nơi cư trú của các cộng đồng sắc thái văn hóa khác nhau.
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học ngày nay đã chứng minh Huế vùng đất ngày nay có mối quan hệ với cội nguồn văn hóa Sa Huỳnh và giao lưu với các nền văn hóa Đông Sơn ở phía bắc đất nước. Theo tài liệu cổ, từ hàng ngàn năm trước đây, tỉnh Thừa Thiên Huế đã từng là nơi cư trú của các cộng đồng sắc thái văn hóa khác nhau.
Truyền thuyết về các giai đoạn hình thành Văn Lang – Âu Lạc, Huế là một vùng đất của Thường trực Việt, một trong 15 bộ của nước Văn Lang cổ xưa. Đến đầu của thời kỳ Bắc, vùng đất này tương quan. Trong 116 trước Công nguyên, quận Nhật Nam ra đời thay thế cho sự tương quan. Năm 192, một nhà lãnh đạo địa phương trong Complex lãnh đạo huyện Nhất Nam với cách mạng lật đổ sự cai trị của nhà Hán, cả nước thành lập một bản sao đã qua sử dụng của Lâm Nghi của Trung Quốc (Lâm Nghi). Trải qua nhiều thay đổi từ tên thành phố Lâm Nghi Hoàn Vương quốc Champa và cuối cùng, nhà nước của Champa là một quốc gia độc lập nằm trong lãnh thổ phía nam của nơi cư trú của Việt Nam, vùng đất Huế là một phần lãnh thổ phía bắc lãnh sự của Vương quốc Champa.
Sau chiến thắng lịch sử Bạch Đằng Ngô Quyền (938 năm), tính độc lập của Việt Nam, khu vực này đang Huế vẫn thuộc về vương quốc Champa. 1306, vua Chế Mân Champa kết hôn với công chúa Huyền Trân, con vua Trần Nhân Tông, và cắt hai đất châu Âu ở phía cực bắc của Champa là Continental và Continental Li O là quà cưới hiện nay. Nhà Trần và đổi tên Continental O và Lý thành Thuận và Liên minh châu Âu Chemical, chính thức trở thành đơn vị hành chính của các trường đại học Việt Nam. Triều Hòa Trần Châu là địa bàn của tỉnh Thừa Thiên Huế ngày hôm nay.
Trải qua nhiều thế kỷ phát triển, tỉnh Thừa Thiên Huế trở thành sự giao thoa giữa hai nền văn hóa lớn của phương Đông và văn hóa của người bản xứ. Trịnh – Nguyễn phân tranh, Huế là kinh đô của nhà Nguyễn chúa Cochin, thủ đô của đất nước dưới triều đại Tây Sơn được gọi là Phú Xuân. Triều Nguyễn, sau khi lên ngôi, vua Gia Long chia thành 23 thị trấn trong cả nước và 4 trụ sở chính, Thừa Thiên Huế, Quảng Đức hiện đang ở nơi cư trú; Các trang web hoạt động Quảng Đức tồn tại trong vòng 20 năm (1802-1822). Đến năm 1822, cung điện của vua Minh Mạng Quảng Đức đã được đổi tên thành Bộ trưởng Bộ Thừa Thiên. Từ 1831 – 1832, vua Minh Mạng đã lần đầu tiên được chia thành 31 đơn vị hành chính cấp tỉnh của quốc gia, trong đó có 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên. Đến thời Pháp thuộc, đã được thay đổi đến Thừa Thiên. Tên này được duy trì cho đến năm 1975. du lịch
Sau ngày thống nhất (30/04/1975), sáp nhập với tỉnh Thừa Thiên Quảng Bình, Quảng Trị và Vĩnh Linh trên địa bàn tỉnh Bình Trị Thiên (1976). Ngày 1989/06/30, tại kỳ họp lần thứ 5 của hội VIII Quốc quyết định chia thành 3 tỉnh cùng tỉnh Bình Trị Thiên, Thừa Thiên sở hữu sau khi ly thân, nó có tên gọi mới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa
Là vùng đất truyền thống lịch sử, Huế cũng là nơi có nhiều anh hùng, nhân vật nổi tiếng như:
– Nguyễn Cư Trinh (1716 – 1767): Một bản địa của làng An Hòa, Hương phường này, thành phố Huế. Ông là một nhà kinh tế, quân sự, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của thế kỷ thứ mười tám Cochin. Ông đã thực hiện chính sách mở đất, cơ cấu tổ chức hành chính phù hợp với tình hình mới, tất cả các tệ nạn, ngoại trừ hành vi trộm cắp, giúp đỡ và khuyến khích mọi người mở đất, sản xuất đời sống tích cực và ổn định, duy trì trật tự xã hội. Bên cạnh sự nghiệp chính trị của ông, Nguyễn Cư Trinh để lại nhiều tác phẩm có giá trị, người Trung Quốc có tuyển tập Am Dam; Raymond Street và 10 bài tập văn phòng Bay Chữ thập Hà Tiên bức tranh phong cảnh; Ghi sai Nôm và 12 bài thơ rải rác cảnh Quảng Ngãi.
– Nguyễn Tri Phương (1800 – 1873): Một bản địa của làng Tang Long (Chí Long), tổng Chánh Lộc (nay Phong Chương), huyện Phong Điền, Thừa Thiên. Ông quan dưới triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đang nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong triều đình, các chúa Nguyễn, đã có những đóng góp to lớn trong việc mở Cochin và đánh bại cuộc xâm lược của Pháp luộc.
– Tuy Lý Vương (1820 – 1897): Tên thật của ông là Nguyễn Phúc Miên Trinh, những học giả nổi tiếng Nguyễn dưới lớn, sinh ra tại thành phố Huế, con trai thứ 11 của vua Minh Mạng, người anh em của mình với Tùng Thiện Vương (Nguyễn Phúc Miên Thẩm). Ông làm việc cho triều đại của vua Thành Thái, nhưng ông đã vui mừng về văn chương của mình và rời khỏi cuộc sống đằng sau nhiều tác phẩm lớn của văn học: trường hợp tập tin Vi Đà, tập tin tuyên truyền vận động, Vi Đà tuyển tập, tiếng chim hót Nam … văn chương của mình tài năng không chỉ được đề cập trong các tài liệu của Việt Nam, mà còn được lưu hành rộng rãi ra bên ngoài. Năm 1981, nhà xuất bản Gallin Mard (Paris) xuất bản những bài thơ của nhà thơ thế kỷ 10, trong đó có mình. khám phá
– Lý thuyết Tôn (1839 – 1913): Một bản địa của thôn Mông Phụ, xã Xuân Hòa, huyện Hương Trà (nay thuộc phường Kim Long, TP Huế) trong một gia đình truyền thống nghề nghiệp của room 4 thế hệ thứ 5 của dòng họ Nguyễn Phúc. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông được bổ nhiệm chức vụ: giám sát dự án tỉnh Hải Dương, Thái Nguyên Phê duyệt tương quan và cơ sở chấp thuận Army Đầu Sơn – Hưng – Tuyên truyền, Tham tán, Bộ Chiến tranh tri Được tham gia, Sơn Tây Tuần phủ, Tuần phủ, Y tá Trợ lý Tổng Giám đốc Ninh – quân sự Thái Lan và Tổng Giám đốc Ninh – Thái – Lang – Hiệp Bang chúa giám đốc dịch vụ vũ trang, Thượng thư Bộ Binh, Regent, tướng Electric Money, Thượng thư bộ Lễ, bên trái phía trên-mail …
– Nguyễn Chí Thanh (1914 – 1967): Là một vị tướng lãnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông đã làm việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau và có khả năng để phát triển khu vực đó cũng nên được gọi là “Phong trào chung”. Ông cũng vạch ra chiến thuật ép quân giải phóng miền Nam với phương châm “Biết kẻ thù trong đó nhấn eo”.
– Đặng Văn Ngữ (1910 – 1967): Là một bác sĩ y khoa nổi tiếng của y học hiện đại Việt Nam. Ông đang dẫn đầu các bác sĩ nghiên cứu về ký sinh trùng ở Việt Nam. Ông và Đại học Y khoa Đông Dương với các bác sĩ nổi tiếng khác của Việt Nam như: Tôn Thất Tùng, Trần Duy Hưng.
Bên cạnh việc xây dựng các nhà thờ, đài tưởng niệm, trong những năm gần đây, Huế cũng đã tổ chức các lễ hội trong sự ra đời và cái chết của các thiên thể, bao gồm các hoạt động như hương mộ, phối Talk, đọc tiểu sử, …
3. Di sản văn hóa
Khi các yếu tố hội tụ giao thoa văn hóa và kinh tế của văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh; Văn hóa của Ấn Độ, nền văn hóa Trung Quốc sau đó phương Tây văn hóa, Huế là một vùng văn hóa độc đáo, đa dạng và phong phú, góp phần bản sắc văn hóa của Việt Nam.
3.1. Đối tượng văn hóa
Châu Á. Di tích
– Di tích Cố đô Huế: tiêu biểu cho những thành tựu trong kiến trúc, điêu khắc, thẩm mỹ và lao động sáng tạo của người dân Việt Nam trong một thời gian dài, đặc biệt là trong nghệ thuật và kiến trúc, quy hoạch thành phố và bố trí cảnh quan, được đánh giá là một “kiệt tác đô thị”. UNESCO đã công nhận di tích vốn của Huế là đánh giá di sản văn hóa thế giới: “Huế đại diện cho con số nổi bật trên thẩm quyền của một chế độ phong kiến Việt Nam đã bị mất trong quá trình của nó Renaissance phổ biến vào đầu thế kỷ XIX; Di tích cố đô Huế là một nổi bật Ví dụ của một thủ đô phong kiến phương Đông “.
Di tích bao gồm Kinh thành Huế Kinh thành Huế, cố đô Huế và Tử Cấm Thành Huế. Ba lồng vào nhau thành nhưng bố trí đối xứng trên một trục thẳng đứng, trên từ nam đến bắc. Di tích trong di tích Huế có 16 điểm được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Hầu hết các di tích hiện nay dưới sự quản lý của Trung tâm Bảo tồn Di tích cho Huế và được UNESCO công nhận Di sản thế giới trang web vào ngày 1993/11/12.
– Cây cầu ngói Thanh Toàn: Các thành phố Huế khoảng 8km về phía đông nam của xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cầu ngói Thanh Toàn là một cây cầu bằng gỗ theo phong cách kiến trúc “phía trên và dưới ở nước ngoài” (ra khỏi nhà, dưới cầu), 43 mét cầu gỗ dài (khoảng 18,75m), chiều rộng 14 mét (khoảng 5,82m) Các Hai bên đầu cầu có hai hàng bục gỗ và lan can để ngồi tựa lưng. Trên một cây cầu được bảo hiểm, ống gạch men, chia thành 7 thời gian, là cầu nối giữa các nhà thờ dâng Trần Thị Đào, người đã xây dựng cây cầu. Sau nhiều lần trùng tu (năm 1847, 1906, 1956, 1971), kích thước và vật liệu xây dựng đã thay đổi một cây cầu nhỏ nhưng phong cách vẫn giữ nguyên.
Cầu ngói Thanh Toàn là một di tích kiến trúc cổ rất có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa. Là một trong những cây cầu trên các loại hình nghệ thuật cao quý hiếm ở Việt Nam, đã được công nhận là di tích quốc gia theo Quyết định số 575 / QĐ ngày 1990/07/14 của Bộ Văn hóa Thông tin.
– Trung tâm Văn hóa Huyền Trân: Nằm khoảng 7km từ thành phố Huế về phía tây, Huyen Tran Trung tâm Văn hóa (West Ward, thành phố Huế) là một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn thu hút một số lượng lớn của người dân địa phương và khách du lịch mỗi Huế. Đây không chỉ là một địa điểm du lịch văn hóa, tâm linh, mà còn là một điểm thu hút lịch sử, đưa du khách trở lại trong các sự kiện lịch sử trọng đại trong việc bảo vệ và mở rộng lãnh thổ của nước Việt Nam tại nhà Trần, thế kỷ XIII. Theo số liệu, công chúa Huyền Trân sinh năm Đinh Hợi (1287), con gái của vua Trần Nhân Tông và Khâm Từ Hoàng hậu, đã có công trong việc phát triển các lãnh thổ của đất nước, trong đó có tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay.
– Cổ Tích xã Phước: Ngôi làng nằm trên bờ sông cổ Lau, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Phước Tích có hơn 100 ngôi nhà cổ, trong đó có hơn 30 được xếp vào loại độc đáo nhất của làng cổ Việt Nam. Trong quá khứ, để làm giống như ngôi nhà này của người lao động mất nhiều năm. Thợ làm tóc không bao gồm công chúng, như của tháng. Trong thời cổ đại, làng gốm Phước Tích có một rất nổi tiếng. Gốm sứ làm bằng bùn sét, màu nâu đen. Wealth, được xây dựng lên rất nhiều ngôi nhà gỗ trong một ngôi làng độc đáo, bề thế, tồn tại cho đến bây giờ cũng nhờ vào gốm.
Ngoài ra, có những làng Huế khác bao gồm các làng An Truyền, Gia đình và đền Thuy Duong, gia đình Lai, Đà Le gia đình, gia đình Mỹ Lợi, gia đình Phú Xuân Thu Le gia đình, gia đình nông dân và đền thờ tuyên bố Upper World trở lại, gia đình Văn gia đình phần Xá Lào và di tích văn hóa Champa: Rượu Rang, chùa Phổ Trạch và đền Xuân Hòa, Thành Lợi, Hòa Châu, Liêu Cốc tòa tháp đôi, tháp Linh Thái, Tháp Phú Điền …
b. bảo tàng
– Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế: Đây là bảo tàng trong những sớm thành lập tại Huế (1923), cái tên đầu tiên là Musée Khải Định. Sau đó, bảo tàng được đổi tên nhiều lần: Bảo Tàng Viện Huế Cổ (1947); Bảo tàng Huế (1958), Các cổ vật trưng bày (1979), Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế (1995), Bảo tàng Cổ vật triều Nguyễn (2007).
Các hiện vật trong bảo tàng được thu thập và lưu trữ từ năm 1913 (khi Hội đồng phần Thanh Hiếu được thành lập), trước năm 1945, số lượng các hiện vật có khoảng 10.000 đơn vị, chủ yếu là đồ nội thất hoàng gia, sử dụng văn phòng, đồ nội thất hoàng gia, các công trình nghệ thuật trong cung điện. .. với nhiều vật liệu, vàng, bạc, ngọc, đồng, ngà voi, thủy tinh, vải, giấy … Ngoài ra, bảo tàng còn là một kho lưu trữ hàng ngàn hiện vật được sản xuất bởi các tòa án tại chỗ, hoặc để đặt hàng, trật tự; quà tặng của các đóng góp quan ngoại giao. Một kho hơn 80 hiện vật thu thập tại Cham O và Lý cũ Châu và trong cuộc khai quật khảo cổ học tại Trà Kiệu (1927).
– Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế: Bảo tàng được thành lập vào ngày 1980/09/16 trên cơ sở các dữ kiện cụ thể của thời thơ ấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình của mình trong gần 10 năm ở Huế. Màn hình hiển thị nội dung của Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế góp phần làm rõ những vấn đề liên kết giữa cuộc sống và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc và tuổi tác. Ngoài những nội dung đặc thù của thời thơ ấu cũng đã trưng bày các chủ đề chung về Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhiều hình ảnh và đa dạng hiện vật. Bên cạnh đó quý khách đến thăm phòng trưng bày, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế cũng đã tổ chức đón tiếp và hướng dẫn khách hàng đến tham quan các di tích món quà lưu niệm thời thơ ấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình ông ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
– Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng Huế: (ADD)
c. Danh Lam Thắng Cảnh
– Sông Hương Hương chỉ 30 km, hợp nhất từ hai nguồn: Tả Trạch và Hữu Trạch. Tả Trạch nguồn từ dãy Trường Sơn phía tây bắc chảy qua 55 thác nước ngoạn mục, ngắn hơn điện Hữu Trạch sau khi vượt qua 14 thác nước và hiểm trở đến ngã ba Bằng Lãng (Tuần fork) hợp lưu với Tả Trạch sông Hương. Sông Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn giữa núi lăn, đồi cây, mang theo mùi hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới. Con sông lấp lánh trong xanh như ngọc bích dưới ánh mặt trời, thuyền Huế lên và xuống, sọc với những gì họ mơ hồ, chu đáo, trung sâu sắc về đêm. Du thuyền Hương Giang thơ mộng ngắm cảnh, những gì họ nghe được, đêm ca Huế tại hẻo lánh trên trời là niềm vui vĩnh cửu bao gồm lớp du khách …
– Hồ Tịnh Tâm: Là một trong những địa danh nổi tiếng của đất Kinh thành, nay nằm tại phường Thuận Thành, Thành phố Huế. Với kiến trúc tinh vi của nó, nhưng rất hài hòa với thiên nhiên, hồ Tịnh Tâm được coi là một thành tích tiêu biểu của kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ XIX. Nguồn cảm hứng cuộc thi sắc đẹp của hồ được tạo ra và trở thành chủ đề của nhiều bài thơ, những bài thơ nổi tiếng của các vua Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức … More nổi bật vẫn là hồ bài ngẫu hứng tinh khiết thấp hơn, nằm trong 20 chùm thơ ca ngợi thần kinh danh lam thắng cảnh đất của vua Thiệu Trị. Bài thơ đương đại với phong cảnh sơn Tịnh Tâm hồ gương để treo tranh trong cung điện.
– Núi Ngự Bình: Còn được gọi là Bang Sơn 104m cao, hình dạng đối xứng hùng vĩ. Cả hai bên Bang Sơn có hai ngọn núi nhỏ gọi là thờ lạy Chúa Con và bạn bè Turn Left Bật Sơn. Triều Nguyễn để xây dựng kinh thành Huế đã chọn núi này là một hệ thống phòng thủ của một tội phạm lớn, tăng cường và đổi tên cho ngọn núi Ngự Bình. Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình món quà vô giá là bản chất thứ hai, nên đến với nhau trong vẻ đẹp của Huế sơn thủy tinh. Từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này với dòng sông trong xanh đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế.
– Núi Bạch: Các thành phố 60km về phía nam Huế, ở độ cao 1.450m, khu nghỉ mát nổi tiếng ở Việt Nam. Trên đỉnh núi hùng vĩ 4 mùa xanh tươi với thác nước, suối, rừng, là một vùng ôn đới như tại Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt … White Mountain Horse là một nơi hội tụ nhiều loại động vật và thực vật quý hiếm ở vùng nhiệt đới. Ma núi Bạch nổi tiếng với nhiều suối và thác nước ngoạn mục. Đứng trên đỉnh khách núi Bạch Mã có thể mất trong các quan điểm toàn cảnh lộng lẫy của đèo Hải Vân, núi Túy Vân, đầm Cầu Hai và lung linh ánh sáng đèn điện của thành phố Huế về đêm.
– Núi Túy Vân: Núi Túy Vân nằm phía đông bắc của huyện Phú Lộc, trước đây gọi là Mỹ Am Sơn năm 1825 vua Minh Mạng đổi tên thành Tuy Hòa Sơn, năm 1841 đổi vua Thiệu Trị của Túy Vân Sơn đã xây dựng dấu hiệu tốt lành bi. Trên đỉnh núi có ngôi cổ tự. Xung quanh khu vực núi có thể tìm thấy một số di tích Champa và dấu vết của một ngôi tháp nổi tiếng của núi Champa Thái Linh, một ngọn núi phía đông của núi Túy Vân.
– Đồi Thiên An Môn – Hồ Thủy Tiên: Thiên An nổi tiếng với trồng thông bao gồm nhiều đồi núi phía tây nam của thành phố Huế, gần lăng vua Khải Định. Hilltop tu viện Thiên An, được bao quanh bởi những ngọn đồi và khu vực hồ bơi Thủy Tiên và các lăng mộ cổ Ba Ring, cũng in dấu vết một quá khứ đáng ngờ. Khung cảnh yên bình, không khí trong lành, và nơi ăn nghỉ Thuỷ Tiên Thiên An là ngày cuối tuần khá thú vị. Hiện nay khu vực này là trung tâm giải trí của Huế.
– Lăng Cô: Bãi biển Lăng Cô khoảng 8 km, nằm dọc theo quốc lộ 1A, cạnh đèo Hải Vân và Vườn Quốc gia Bạch Mã 24km. Đây là một bờ biển thú vị trên bãi biển, cát trắng, trung bình và sóng lớn, thủy triều lên xuống với chế độ thủy triều tại lợi nhuận thấp (khoảng 0,7-0,8 m), rất thích hợp cho loại hình du lịch này bãi biển, khu nghỉ mát, lặn biển, và có được xác định là một khu nghỉ mát lý tưởng kể từ thập kỷ. Đằng sau bãi biển là đầm Lập An và dãy núi Bạch, có những nhân tố mang Lang tiềm năng rất lớn trong việc phát triển nhiều loại hình du lịch: nghỉ mát, lặn biển, khám phá hệ thực vật – thực vật hoang dã, nuôi trồng thủy sản …
Huế có nhiều thắng cảnh đẹp khác như đồi Vọng Cảnh, Bãi biển Thuận An, Không có thác nước, suối Voi, suối Mơ, suối khoáng Thanh Tân …
Các món ăn cung đình Huế
3.2. Văn hóa phi vật thể
Bên cạnh các di sản văn hóa vật thể, Huế cũng có một sự phong phú văn hóa phi vật thể. Các loại hình nghệ thuật (của triều đình và dân gian), lễ hội, văn hóa ẩm thực, thủ công mỹ nghệ và nghệ thuật truyền thống, phong tục và truyền thống của Huế rất đa dạng, độc đáo và đặc biệt.
Châu Á. Phong tục tập quán
– Đám cưới tùy chỉnh: quá trình đám cưới ở Huế cũng có đủ các bước thủ tục như các địa phương khác, từ lễ chạm ngõ, kết hôn, để vu đám cưới cung cấp … Nhìn chung, các đám cưới Huế thường diễn ra tiết kiệm, đơn giản, không phô trương, nhưng ở mỗi phần cụ thể cầu kỳ, quan niệm về “nghi thức tôn trọng khi (khinh) tài vật”.
– Tục chôn cất: Nghi thức xã giao của nhiều địa phương chôn cất ở tỉnh Thừa Thiên Huế có nhiều tính năng nhưng khác nhau nhưng vẫn tương tự như trong những điều cơ bản. Khi con người chết, nếu chết ở xa xa, không có quan tài mang đến nhà, mà làm cho tang ở một ngã tư. Nếu chết trong bình thường, quan tài thường được bọc trong lớn. Tùy thuộc vào tình trạng của gia đình đặt tại các Trung tâm, dựa trên hoặc căn hộ dưới đây. Một lời nói để hiểu nhau trong cùng một làng. “Là tốt nhất cẩn thận, dễ dàng truy cập thứ hai” tập trung đông người hàng xóm, những người làm sân khấu, trang trí nội thất, người được bọc trong một tấm vải liệm. Công việc bắt đầu tụ tập trong ngày. Vì không ai được sử dụng cho đến chết, được gọi là chết. Người gần đây took đặt trên giường bật ra thờ san.- thờ Phật, tổ tiên: Hầu hết các gia đình được đặt bàn thờ tổ tiên Huế và gian giữa thờ Phật đúng ngôi nhà chính. Bàn thờ Phật được đặt ở phía trước, thờ Thích Ca Mâu Ni hay Bồ Tát Quán Thế Âm. Thậm chí sau đó bàn thờ tổ tiên, thờ phượng của người chết trong nội các dòng họ. Thông thường, con trai cả những người có trách nhiệm chăm lo việc thờ phượng và thừa kế tài sản của gia đình. Người vợ là mua sắm trách nhiệm vụ thực sự tốt. Mỗi năm, cả nhóm đã tưởng niệm khá xa hoa, người thân tham dự khá đông đủ.
– Tiếp tục jinn: vốn tổ chức sự kiện ngày 23 tháng 5 đã giảm trong Ất Dậu (1885/07/05) làm Cố đô Huế ngập trong vũng máu. Để tưởng nhớ đến những người dân vô tội đã ngã xuống, người dân Huế đã tổ chức một nghi lễ hàng năm được gọi là ấm cúng. Cũng hy sinh đã được tổ chức trọng thể tại đền thờ ấm hơn (ở ngã tư đường Mai Thúc Loan và Lê Thánh Tôn), trong mỗi gia đình, các hiệp hội, các tổ chức, đoàn thể … đang tiến hành tế lễ. Thực hành thờ phượng Jinn là một tình hình nhân đạo cánh hoa chảy tốt. Đây là một lễ hội đầy màu sắc của dân gian, và cũng có một nền văn hóa đẹp của người Huế.
b. Lễ hội
– Carnival hoàng: lễ hội hoàng gia diễn ra tại tòa án dưới triều Nguyễn (1802-1945). Hầu hết các lễ hội của tòa án như lễ Nam Giao, hy sinh Văn học, Xã Tắc Ritual, Đền Thái Ritual, Sự hy sinh đền, tính nghi lễ, nghi lễ United Way, các lễ hải quân Trào, lễ đăng quang, lễ kỷ niệm của tuổi bốn mươi đời, năm mươi của hoàng đế , hoàng hậu, và các ngày lễ kỷ niệm Khánh Hưng (âm lịch st 02 Tháng năm) …
– Folk Festival: Huế là nơi còn bảo tồn các lễ hội dân gian độc đáo, đặc biệt là các lễ hội sau đây:
+ Hòn Chén Lễ hội đền: Diễn ra hai lần một năm, tháng ba (Spring International) và tháng bảy (doanh thu quốc tế). Lễ hội diễn ra ở vùng núi Hòn Chén Ngọc Trần và làng Cát Hải, huyện Hương Trà. Lễ hội tôn thờ Thiên Y A Na Marian. Chư thiên tạo cây đất, rừng và rừng dạy cho người nông dân. Hòn Chén Lễ hội đền còn được gọi là lễ Vía Mẹ, không chỉ các tín hữu của Giáo Hội Thiên Chúa Tiến Thành, mà còn của những người tôn giáo tôn thờ nàng, lòng hiếu thảo, tôn giáo làm người. Trong ý nghĩa đó, sự phục hồi của lễ hội đền Hòn Chén là để khôi phục lại một giá trị văn hóa truyền thống của khu vực.
+ Các jinn tôn: Có lẽ không nơi nào trên thế giới có một quy mô của lễ nghi lễ, những người như nghi lễ phổ Jinn vào ngày 23 tháng 5 âm lịch hàng năm tại Huế. Đây là buổi lễ thờ phượng nơi người tham gia có những đặc điểm cá nhân trong mỗi gia đình, cộng đồng có với thiên nhiên trong tất cả các đoàn thể, các tổ chức, các nhóm có chung cùng nghề, trong một ngôi làng và phường. Thực hành thờ phượng Jinn là một tình huống phạt cánh hoa chảy nhân đạo, đồng nghiệp rằng, đồng nhất, nó có đầy đủ ý nghĩa của một lễ hội dân gian mang đậm màu sắc dân tộc, đại diện cho một vùng đất văn minh.
Nhân vật làng + Hội Sinh: Được tổ chức vào ngày 10 tháng giêng âm lịch hàng năm tại làng Ân Lai (còn gọi là làng Sình), xã Phú Mậu, huyện Phú Vang. Đây là một hoạt động truyền thống văn hóa, tinh thần thượng võ phong phú của người dân địa phương. Làng Hội Sinh bên ngoài yếu tố vật chất mong muốn như tinh thần cho những người khỏe mạnh, yên tĩnh làng, mùa màng tươi tốt, hạnh phúc cho tất cả mọi người là một trò chơi vui nhộn, đầy đặn với tinh thần hiệp sĩ, kích thích tập luyện, lòng can đảm, sự tự tin và khôn ngoan cho các thanh thiếu niên.
+ Truyền thống Kite Hiệp hội: Hiệp hội diều Huế truyền thống được tổ chức vào một hàng năm 26,3. Đây là ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí ở Minh Thanh niên Cộng sản và giải phóng ngày Huệ, thành phố Huế nên yêu cầu tổ chức thực hiện vui mừng tim. Các địa điểm là sân vận động Southern Gate. Hiệp hội tập hợp diều là nơi các nghệ nhân diều và người lớn trẻ tuổi để bảo tồn và phát huy các môn thể thao bổ ích của các thành viên và tạo điều kiện để nâng cao mức độ cạnh tranh và hiệu suất.
+ Hiệp hội Đua thuyền truyền thống: Các lễ hội mới được tổ chức sau khi thống nhất đất nước. Lễ hội được tổ chức trong một ngày, cho ngày lễ Quốc khánh (2.9). Địa điểm là cuộc đua sông Hương trước khi giáo dục quốc gia. Hiệp hội nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho những người đàn ông trẻ tuổi và phụ nữ có cơ hội cạnh tranh trên mặt nước, qua đó đào tạo, nâng cao sức khỏe và tạo ra một bầu không khí vui vẻ lành mạnh cho mọi người. Đây là một cơ hội để bày tỏ sự vui mừng của người dân vào ngày quốc khánh. Hội nghị được tổ chức mỗi năm một lần với quy mô rộng.
+ Festival Huế: Được tổ chức 2 năm một lần trong suốt mùa hè. Lễ hội này là một quốc gia và quốc tế, để thúc đẩy nền kinh tế du lịch, bản sắc văn hóa giới thiệu Huế và Việt Nam, mở rộng giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Chương trình với nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật độc đáo, sôi động và hoành tráng, với sự tham gia của nhiều đoàn nghệ thuật, nghệ sĩ, diễn viên chuyên nghiệp trong và ngoài nước Liên hoan; được tổ chức thành hai chương trình IN và OFF, với các hoạt động khác nhau đang diễn ra trên toàn thành phố Huế và một số nơi trong tỉnh, các chương trình tham quan, vui chơi giải trí ấn tượng.
c. Làng nghề, nghề truyền thống
Vốn là vùng đất có kinh nguyệt, Huế hiện có 88 làng trong đó có 69 làng nghề truyền thống, 8 thôn và 11 làng nghề với khoảng 32 ngành nghề mới và các nhóm nghề. Một số làng nghề truyền thống đã được bảo tồn như làng tranh gốm Sinh, gốm Phước Tích … Một số làng đã được khôi phục và phát triển khá như đúc (Phường Đúc), nghệ thuật gỗ (Mỹ Xuyên, Xước Dũ), hầu hết các nước (Phú Thuận ), đệm bàng (Phò Trạch), confetti (Thanh Tiên), hình ảnh in (ăn uống), nón (Thuy Thanh, Lam My), dệt Zeng (Roàng, Dot) … 2011 có 4 dự án triển khai trên địa bàn tỉnh được hỗ trợ bởi tài trợ kinh phí khuyến công quốc gia với gần 1,1 tỷ đồng (2 đề án đào tạo nghề cho 940 nhân viên và 2 trình diễn sản phẩm mới).
xem thêm: Những khu nghỉ dưỡng bậc nhất ở Huế